Nguyễn  Du (1765 – 1820) quê ở  Thăng Long, tên chữ Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.  Ông sinh ra trong một  gia đình quý tộc và sống trong xã hội phong kiến  – một xã hội thối nát,  suy thoái. Chính vì thế mà ông có dịp hiểu biết  về lối sống phong lưu xa  hoa của giới quý tộc phong kiến và có điều  kiện dùi mài kinh sử. Ông  được tiếp thu truyền thống học tập và sáng  tác của cả gia đình, tạo cho  ông vốn học vấn Nho học uyên thâm, lối  sống tao nhã, khiến ông hiễu rõ  về tầng lớp phong kiến . ‘’Truyện  Kiều’’ còn có tên Đoạn Trường Tân  Thanh là một trong những sáng tác  chính của ông. Bên cạnh đó ‘’Nỗi  Thương Mình’’ là một đoạn trích thể  hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc  đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc  biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của  đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích  chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ câu 1229  đến câu 1248, cho thấy tâm trạng  đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương  thân trách phận và ý thức sâu sắc  về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở  chốn lầu xanh.
  
     Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên  lại cho  em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm  ấy, Kiều  gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn  nhất có lẽ là  lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước  ngoặt bẻ  ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay  Tú Bà, Kiều  rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích,  Kiều lại mắc  bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những  tháng ngày ê  chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi,  đem tấm thân  trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm  tiền háo sắc.  Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những nàng vô  cùng buồn tủi, tâm  trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi  nhục của kiếp hồng  nhan.Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn  biến tâm trạng và trớ  trêu của cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời  độc thoại nội tâm dầy  đau đớn : “Khi tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng  là thời điểm mở đầu cho  những chuỗi tâm sự nối kết, ngỗn ngang. Kiều  nghĩ đến thân phận mình để  rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót  xa cho chính bản thân mình.  Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng  khi nàng sánh với quá khứ.
  
     Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ  đến ê  chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:
     “Biết bao bướm lả ong lơi,
     Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
     Dập dìu lá gió cành chim
     Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”
     Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô  bồ, nhơ  nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh.  Nguyễn Du đã  miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh  bằng bút pháp  ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải  tiếp khách mua vui  cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ đươc  hay là đếm được,  bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiêu tiếp khách làng  chơi triền miên  “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta  thấy đươc sự nhộn  nhịp của chốn lầu xanh , nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra.  Bằng những hình  ảnh ẩn dụ : bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận  cười suốt đêm” và  các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống  Ngọc, Trường Khanh” –  chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu ND  cho thấy tình cảnh của  TK tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh  tao, phong nhã nhưng  thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày K phải làm  công việc nhơ nhuốc,  tiếp đủ các loại khách đến mua vui. Điều này cho  ta thấy rõ hơn về nỗi  bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của TK. Bút pháp  ước lệ giúp ND không  tránh né số phận thực tế của TK mà vẫn giữ được  chân dung cao đẹp của  nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm  trhông của tác giả đối  với nhân vật.
  
     ND đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập  nghiệt  ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say,  trận cười  triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu  tả trực  tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc  vô hình,  bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt  ngã mà  nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ  nữ. Nguyễn  Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước  lệ rất tài  tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích  làm cho sự  hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn.  Bởi vì chỉ có  hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm  nhân vật, mới  thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự  chịu đựng giày vò  đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy  là tấm lòng cảm  thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.
  
     Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh  có  nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình   thường , trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một   tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn   che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của   Kiều trong những ngày tủi nhục , nỗi ê chề , sự ép buộc , đày đọa mà   Kiều phải chịu đựng:
     “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
     Giật mình mình lại thương mình xót xa”
     Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu  lúc tàn  canh” Kiều mới có một khoẳng khắc hiếm hoi để sống thực với  chính mình  và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con  người mình.  Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm  xót xa. Nhịp  thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3  chuyển sang nhịp  2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp  ấy đã diễn tả sự  biến đổi đột ngột trong tâm hồn TK. Nàng bàng hoàng  đau xót trước thực  tại phủ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự  xót xa, đau đớn cho  chính số phận bi thương, đoạn trường của mình. Giật  mình ko chỉ là hành  động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động  đột ngột nào đó của  môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm  xúc bên trong mà nếu ko  có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ  khác trong thanh lâu của Tú  bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá  thảm hại về thể xác và phẩm  cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ  loi của mình và sự yếu đuối  bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu  xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà  ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp  lại ba lần trong một câu thơ như  tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của TK  ý thức được về phẩm giá, nhân  cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý  thức cá nhân và quyền sống của  con người trong lịch sử phong kiến mà ND  muốn truyền tải đến người đọc.
     Đối  với hai câu trên với nhịp thơ đầy nổi tủi nhục của Kiều thì  những câu  tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập  thực tại  tăm tối đọa đày:
     “Khi sao phong gấm rủ là
     Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
     Mặt sao dày gió dạn sương
     Thân sao bướm chán ong chương bấy thân”
     Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết  mực. Một  cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến  chuyển  nhanh chóng đế mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt.  Phép đối  lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và  nhất là  trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên  sự so sánh  đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp  từ đối lập  chỉ thời điểm: “Khi sao / giờ sao” tạo nên cảm giác đột  ngột của sự  thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt.  Chính vì điều  này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào  sâu thêm vào  nỗi xót xa, tê tái của Kiều.
     Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi  tưởng  lại những tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì lập tức thực  tại phủ  phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả  một sự  bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác”  trong  câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi  chôn  quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi  bật sự  đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn  cảnh.  Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng  tạo về  cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ  tăng tiến  cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các  câu hỏi tu  từ ở đây đc ND sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của  Kiều trước  thực tại phủ phàng, tàn nhẫn.
  
     Hai câu thơi day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái  vốn tài  sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán  tất cả:
     “Mặc người mưa Sở mây Tần
     Những mình nào biết có xuân là gì?”
     Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác  hành hạ  bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán  chường muốn  buôn tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách  làng chơi  (số nhìu) với chính mình – Kiều (số ít) như thể hiện tột  cùng nỗi cô đơn  của nàng. Từ xuân ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh  phúc lứa đôi  nhưng với TK sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có  mùa xuân, chỉ  thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn  của cuộc đời  người kỉ nữ mua vui. Từ mặc ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc  cho mọi thứ  muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của TK  nhưng không làm  sao khác được.
     “Đòi phen gió tựa hoa kề
     Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
     Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
     Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
     Đòi phen nét vẽ câu thơ
     Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
     Vui là vui gượng kẻo là
     Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”
  
     Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong – hoa –  tuyết –  nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu  thổi, hoa  hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc,  tuyết đông phủ  kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên  bức tranh đầy  màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những  thú vui của con  người: cầm – kì – thi – họa càng tô điểm cho bức tranh  ấy thêm phần nhộn  nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những  cảnh thiên nhiên  đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt,  mỉa mai, chua chát.  Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che  đậy nổi cái bản chất  nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt  bán người”. Đoạn thơ vì  thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều  luôn phải tách mình thàn  hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả  tạo và một con người  thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.
     Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái.. Khi gió  tựa hoa  kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và  nghẹn ứ trong  lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị  giày xéo,  khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai  từ “đòi phen”  được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là  một nỗi đau  thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của  Kiều lan tỏa  sang cảnh vật :
     “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
     Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
     Bằng sự thông cảm lạ lung, và bằng tài năng kì diệu, ND đã viết  nên hai  câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và  tình. Từ một  trường hợp cụ thể, thơ ND đã vươn tới tầm phổ quát, trở  thành chân lí  của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của  đoạn trích vì nó  gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân  vật từ đó lan tỏa  sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi  buồn của TK cứ dâng  lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó  cứ khuấy động bên  trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào  đó, tức nước vỡ bờ,  nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi long, cảm  xúc của TK, khiến cho  mọi vật qua cái nhìn của nàng đề trở nên u buồn,  tăm tối, nhuộm màu  tang thương.
  
     “Vui là vui gượng kẻo là
     Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
     Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của TK được ND thể hiện một cách  tinh tế,  độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài  nhân không  hề có được. Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô  độc cũng là sự  mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn  cảnh. Sống trong  cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua  những cơn say, trận  cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất  đắc dĩ, Kiều không  bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng  tượng được cuộc đời  mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà  đồng tiền lên ngôi, có  bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều  chỉ là sự rã rời, đau  đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là  tri kỉ, có ai để “mặn  mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn  mong ngóng một tấm  lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa  trực tiếp lại khiến  cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu  hỏi tu từ đầy sót xa  cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của TK giàu  long tự trọng coi trọng  phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên,  trong sạch.
     Đoạn trích Nỗi Thương Mình thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính  cách  của TK. Thể hiện tập trung tư tưỡng nhân văn của tác giả: cảm  thương  trước bi kịch của K, khẳng định nhân cách đẹp đẹ của nàng và  khẳng định  sự ý thức về nhân phẩm và sự ý thức cá nhân.Thể hiện nỗi  thương mình của  TK, ND cũng thể hiện được nghệ thuật miêu tả nội tâm  nhân vật với ngôn  ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa  vào nhau tạo nên sự  đồng cảm giữa tác giả-nhân vật- người đọc.
Nguồn : vanhocvn.com



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
»Bạn có thể nhận xét / góp ý / bình luận tại đây.
Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.
»Bạn chưa có tài khoản Blogger vẫn có thể nhận xét bằng cách chọn hồ sơ là Tên/URL (với URL là địa chỉ email hoặc blog của bạn).
»Admin không trả lời các tài khoản Ẩn danh / Nặc danh